Điểm tham quan tại Đà Nẵng

I. Du lịch văn hóa tôn giáo Đà Nẵng



1. Đình Bồ Bản

Đình Bồ Bản

Địa chỉ: Thôn Bồ Bản, Xã Hòa Phong, Huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng

Vị trí: Đình Bồ Bản hiện ở tại thôn Bồ Bản, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Đặc điểm: Đình được xây dựng vào những năm đầu của thế kỷ 19 bằng thanh tre tại gò miếu Tam Vị.

Đình Bồ Bản lập ra để thờ Thành hoàng, các vị tiền hiền của làng và là nơi sinh hoạt lễ hội hằng năm. Năm 1852, đình được dời về trung tâm làng.

Với tường xây gạch, mái lợp ngói âm dương, đình được chia làm 3 gian; 2 chái; dài 14,5m; rộng 9,7m; có 36 cột bằng gỗ mít và kiền kiền. Kết cấu kèo, cột cũng được thể hiện theo lối chồng rường giả thủ, đầu các trính chạm đầu rồng, các vì kèo chạm mai, trúc, tùng, lan. Ngoài ra, còn có các loài chim, thú như chim sẻ, khỉ (hầu) và các họa tiết hoa văn, được khắc chạm tinh tế, khéo léo và tỉ mỉ, tạo nên những tác phẩm điêu khắc độc đáo, giàu tính nghệ thuật, có giá trị khoa học.

Đình đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa ngày 04/01/1999.


2. Đình Tuý Loan

Đình Tuý Loan

Địa chỉ: Thôn Túy Loan,, Xã Hòa Phong, Huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng

Vị trí: Đình Tuý Loan hiện ở tại thôn Túy Loan, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Đặc điểm: Đình Túy Loan là ngôi đình duy nhất còn giữ được 15 sắc phong từ thời Minh Mạng đến Bảo Đại.

Được xây dựng vào những năm cuối thế kỷ 18, cụ thể là vào năm Thành Thái thứ nhất (1889). Cũng như đình Nại Nam và Bồ Bản, đình Túy Loan thờ Thành hoàng bổn xứ và các vị tiền hiền, hậu hiền của làng.

Đình có diện tích 110m², nằm trong khuôn viên rộng hơn 8.000m², thoáng đãng, hướng quay ra sông, nhìn về thế núi, sát đường lớn, dưới bóng cây đa cổ thụ cành lá xum xuê. Mái đình lợp ngói âm dương, tường xây bằng gạch, trên mái trang trí lưỡng long chầu nguyệt, hai đầu mái đắp hình rồng uốn lượn được ghép bằng sành sứ. Trong đình chia làm 3 gian, 2 chái, phần hậu tẩm rộng 2,4m, dài 2,7m gồm 4 hàng cột bằng gỗ mít, mỗi hàng có 6 cột cao từ 2,5 đến 4,5m.

Kết cấu các vì kèo, cột theo kiểu chồng rường giả thủ. Các giả thủ chạm khắc hình hoa lá cách điệu, chân giả thủ trang trí hình quả bí. Hai đầu các thanh trính chạm đầu rồng, cột kèo ở hai đầu hồi chạm đầu rồng và hoa văn mây cuộn, hoa cúc, hoa mẫu đơn... thể hiện tài năng thợ Kim Bồng.

Hằng năm nhân dân tổ chức lễ tế Xuân vào 14 - 15 tháng 2 âm lịch và tế Thu vào 14 - 15 tháng 8 âm lịch tại đình. Đình đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa ngày 04/01/1999.


3. Nhà thờ phái chư tộc Quá Giáng

Nhà thờ phái chư tộc Quá Giáng

Địa chỉ: Thôn Quá Giáng, Xã Hòa Phước, Huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng

Vị trí: Nhà thờ phái chư tộc Quá Giáng nay nằm ở thôn Quá Giáng, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Đặc điểm: Nhà thờ được xây dựng năm Tân Tỵ (1821) thờ Quan Thánh và các vị tiền hiền của bốn tộc Đinh, Lê, Trần, Nguyễn - những người có công theo Chúa Nguyễn vào Nam khai phá đất đai lập nên làng Quá Giáng.

Nhà thờ được chia làm hai phần: phần tiền đường và phần chính điện. Nối nhà tiền đường và chính điện là hai dãy hành lang có mái che tạo nên một kiến trúc khép kín kiểu chữ nhật.

Tiền đường xây theo lối chồng rường giả thủ, chân giả thủ đều trang trí hình quả bí, phía trên được trang trí hình đài hoa sen. Hai dãy cột chính mỗi dãy bốn cột cao 5m chống đỡ hai vì kèo và hai dãy cột quân thấp hơn chống đỡ hai mái phụ. Trên các thanh xà, kèo đều được trang trí cỏ cây, hoa lá, muông thú, bát bửu và các đường trang trí khác. Đuôi kèo được chạm khắc hình tượng cá chép hoá rồng. Phần nhà thờ chính được xây dựng theo lối kéo tam đoạn (kéo chuyền) với ba gian bốn mái. Bốn cột chính cao 5m cùng 8 cột quân cao 3m và 16 cột con chống đỡ vì kèo. Đầu các thanh trính được khắc hình đầu rồng, giữa được trang trí chữ thọ và các đường nét trang trí hoa lá khác. Bộ cửa thượng song hạ bản cùng với bộ mắt cửa thể hiện rõ phong cách kiến trúc của Hội An với bàn tay tài hoa khéo léo của người thợ làng Kim Bồng nổi tiếng. Mái nhà thờ lợp ngói âm dương với hình ảnh loan phụng hòa mình trên nóc. Hai bên là hai con rồng ngoái đầu lại nhìn nhau. Các con giống trong “tứ linh” cũng được đưa lên mái trước của tiền đường.

Hàng năm dân làng có hai kỳ Xuân Thu tế lễ vào các ngày 20/2 và 12/7 âm lịch để tưởng nhớ lại các vị tiền hiền đã mở mang vùng đất này. Nhà thờ phái chư tộc Quá Giáng được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích quốc gia vào ngày 01/02/2000.


4. Đình Nại Nam

Đình Nại Nam

Địa chỉ: , Phường Hòa Cường Bắc, Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng

Vị trí: Đình làng Nại Nam nay ở khối phố Nam Sơn, phường Hòa Cường, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Đặc điểm: Di tích đình Nại Nam, ngoài giá trị của một di tích kiến trúc - nghệ thuật còn là một trong những đình làng cổ tiêu biểu khá nguyên vẹn còn lại trong nội thành Đà Nẵng.

Đình được xây dựng năm Ất Tỵ (1905) từ công sức đóng góp của dân địa phương, thờ Thành hoàng bảo an chính trực, bổn xứ thổ thần và các vị tiền nhân của làng.

Đình ghi đậm dấu ấn văn hóa thời Nguyễn, mái lợp ngói âm dương, tường gạch, trên mái đình là lưỡng long chầu nguyệt, loan phụng hòa vinh, dơi ngậm đào, thể hiện qua nghệ thuật đắp ghép sành sứ, công phu, đẹp mắt. Bên trong chia làm 3 gian, 2 chái, phần chính diện dài 11,7m, rộng 7,9m, hậu tẩm rộng 3,9m, dài 4,1m. Có 4 hàng cột gồm 20 cột bằng gỗ mít, có chiều cao từ 2,5m - 4,5m. Kết cấu kèo theo “chồng rường - giả thủ”. Phần đầu hồi chạm trổ khéo léo và tinh xảo qua bàn tay tài hoa của thợ chạm Kim Bồng (Hội An), thể hiện các đề tài: cá chép hóa long, bát bảo đạo nho, cùng các họa tiết hoa văn cây cỏ, hoa lá.

Hằng năm có lễ cầu an tại đình vào rằm tháng 2 âm lịch và ngày lễ cuối năm (30 Tết). Đình làng Nại Nam được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích quốc gia vào ngày 04/01/1999.


5. Chùa Tam Thai

Chùa Tam Thai

Địa chỉ: , Huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng

Vị trí: Chùa tọa lạc ở xã Hòa Hải, huyện Hòa Vang, trong khu vực Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố 13km.

Đặc điểm: Chùa ở sườn núi phía Nam (Thủy Sơn), đi lên 156 bậc đá, là ngôi chùa cổ được dựng vào thời Hậu Lê.

Có tài liệu cho là Thiền sư Nguyên Thiều đã khai sơn chùa vào nửa sau thế kỷ 17. Thiền sư Hưng Viên trụ trì chùa vào cuối thế kỷ 17. Thời gian này, Thiền sư Thạch Liêm có ghé viếng chùa, cảm tác các bài thơ vịnh núi Tam Thai, đặt tên động Hoa Nghiêm phía sau chùa. Chùa bị hỏng hoàn toàn vào thời Tây Sơn. Dưới đời vua Minh Mạng, chùa được ngài Quang Chánh cho trùng tu vào năm 1825 do em gái nhà vua tu ở chùa. Chùa còn được trùng tu vào đời vua Thành Thái và những năm 1995-1996.

Chùa cũng là nơi có nhiều khách hành hương thăm viếng, cầu Phật, đặc biệt là vào dịp lễ tết. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.


6. Chùa Linh Ứng Sơn Trà

Chùa Linh Ứng Sơn Trà

Địa chỉ: Bán đảo Sơn Trà, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng

Vị trí: nằm trên đỉnh núi thuộc Bãi Bụt, bán đảo Sơn Trà, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng

Đặc điểm: được đánh giá là ngôi chùa lớn nhất thành phố Đà Nẵng cả về quy mô lẫn kiến trúc nghệ thuật, nơi có tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát cao nhất Việt Nam.

Nằm ở lưng chừng dãy núi trên bán đảo Sơn Trà, với diện tích 20ha, mặt hướng ra biển Đông, chùa Linh Ứng Sơn Trà (còn được gọi là chùa Linh Ứng Bãi Bụt) được xem là nơi hội tụ linh khí đất trời.

Được khởi công xây dựng từ tháng 07/2004 và khánh thành ngày 30/07/2010, chùa Linh Ứng Sơn Trà là một quần thể bao gồm các hạng mục: chính điện, nhà tổ, giảng đường, tăng đường, thư viện... Chính điện của chùa có những trụ cột vững chắc được bao quanh bởi hình rồng nổi uốn lượn rất tinh xảo. Chính giữa điện thờ tượng Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, Quan Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thẳng hướng chính điện là “vườn La Hán”, nơi đặt tượng 18 vị La Hán được tạc bằng đá trắng nguyên khối. Mỗi vị là hiện thân cho những cung bậc cảm xúc "hỉ, nộ, ái, ố", tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động, chân thực.

Điểm nổi bật nhất trong quần thể kiến trúc chùa Linh Ứng Bãi Bụt là pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao 67m, đường kính tòa sen 35m, mặt hướng ra biển với đôi mắt hiền từ, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam lộ như đang ban phát phước lành cho chúng sinh. Trong lòng tượng có 17 tầng tháp, mỗi tầng đều đặt bệ thờ Phật mang hình dáng, vẻ mặt, tư thế khác nhau, gọi là “Phật trung hữu Phật”.

Đặc biệt, từ cổng chùa, du khách có thể hướng tầm mắt chiêm ngưỡng thành phố Đà Nẵng - một đô thị đang trên đà phát triển. Xa xa là danh thắng Ngũ Hành Sơn, bãi biển Đà Nẵng trong xanh với bờ cát dài trắng mịn.

Chùa Linh Ứng Sơn Trà không chỉ là nơi học tập, tu hành của tăng ni, phật tử mà còn trở thành điểm du lịch tâm linh hấp dẫn du khách thập phương.


7. Chùa Linh Ứng

Chùa Linh Ứng

Địa chỉ: Tp. Đà Nẵng.

Vị trí: Nằm bên sườn Thuỷ Sơn trông ra hướng biển, Tp. Đà Nẵng.

Đặc điểm: Chùa xây từ thời vua Minh Mạng. Trải qua năm tháng chùa bị hư hỏng nhiều. Năm 1970, các tăng ni Phật tử góp công của xây lại chùa mới như ngày nay.

Chùa xây từ thời vua Minh Mạng. Trải qua năm tháng chùa bị hư hỏng nhiều. Năm 1970, các tăng ni Phật tử góp công của xây lại chùa mới như ngày nay. Trong chùa có bộ tượng La Hán bằng đá trắng. Bên phải chùa là vọng Hải Đài (đài ngắm biển). Đứng ở đài này nhìn rõ biển Non Nước mênh mông.


8. Đình Hải Châu

Đình Hải Châu

Địa chỉ: đường Phan Chu Trinh, phường Hải Châu 1, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Vị trí: Đình làng Hải Châu nằm tại kiệt 42, tổ 6, đường Phan Chu Trinh, phường Hải Châu 1, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Đặc điểm: Các nhà sử học xác định Đình Hải Châu là Chùa Phước Hải, nơi Chúa Nguyễn Phúc Chu năm Kỷ Hợi - 1719 đã vào Quảng Nam và nghỉ lại, sau đó dân đã lập bàn thờ ông tại đây.

Phía trước đình có hồ nước lớn, ở giữa sừng sững hòn non bộ rợp bóng cây bồ đề trên dưới trăm tuổi. Trên cổng Tam Quan vẫn còn rõ tên Hải Châu Chánh Xã bằng chữ Hán. Qua khoảng sân rộng là một quần thể kiến trúc chính gồm: Đình Hải Châu, Nhà thờ Tiền Hiền nằm giữa hai nhà thờ tộc thành hình chữ “nhất”. Nhà thờ bên trái của tộc Nguyễn Văn mới tách ra, còn nhà thờ bên phải gọi là Kinh An Tự thờ chung 42 bài vị của 42 tộc họ. 42 tộc họ này đều từ thôn Hiếu Hiền, xã Hải Châu, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa, theo vua Lê Thánh Tôn vào nam từ năm Tân Mão (1471). Vua Lê đã lập ra ấp Hàn Giang (sau là tỉnh Quảng Nam, nay là thành phố Đà Nẵng) và các tộc họ ấy đã quần tụ lại thành làng Hải Châu (theo tên xã cũ ở Thanh Hóa, bao gồm phần nội thành Đà Nẵng hiện nay), được triều Nguyễn phong sắc phong “chánh xã”. Hơn 500 năm qua các tộc họ đầu tiên ấy đã đặt nền móng và không ngừng đóng góp công sức cho sự hình thành thành phố Đà Nẵng hiện nay.

Đình làng Hải Châu được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 12/7/2001.


Bia chùa Long Thủ

Bia chùa Long Thủ

Địa chỉ: , Bình Hiên, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Vị trí: Bia chùa Long Thủ được dựng trong khuôn viên chùa Long Thủ nay đổi tên là chùa An Long, thuộc địa bàn phường Bình Hiên, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Đặc điểm: Bia chùa Long Thủ được dựng vào năm Thịnh Đức thứ 5, triều vua Lê Thần Tông (1658), do ông Lê Gia Phước, pháp danh Pháp Giám, người làng Hải Châu viết.

Nội dung bia nói về nguyên nhân xây dựng và tên gọi của chùa Long Thủ, tên họ những người đã đóng góp tiền của, đất đai để xây dựng chùa cùng danh sách những mảnh đất được cúng.

Theo nội dung bia thì ngày xưa ở vùng Nại Hiên, đức Phật thường cứu giúp những người bị hoạn nạn vì vậy các tín đồ Phật tử thường đến đây để cầu nguyện. Ông Trần Hữu Lễ là người trong làng đã dâng cúng một khu vườn để xây dựng ngôi chùa làm nơi thờ phụng đức Phật, các tín đồ trong vùng đã đóng góp tiền của, ruộng đất để xây dựng ngôi chùa và đúc chuông, tạc tượng vào năm 1653.

Trước đây, bia chùa Long Thủ đã được Toàn quyền Đông Dương xếp hạng là di tích lịch sử theo Nghị định ngày 02/12/1992 Bộ Văn hóa -Thông tin đã ra quyết định công nhận bia chùa Long Thủ là di tích lịch sử cấp quốc gia.



Điểm tham quan du lịch khác tại Đà Nẵng




Cẩm Nang Du Lịch Đà Nẵng